Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

Những điều ít biết về rộng rãi Hoàng đế Lý Huệ Tông

Trong số các vị vua thời phong kiến ở nước ta, có nhẽ Lý Huệ Tông là vua gặp nhiều thống khổ, xấu số hơn cả; thế cục và sự nghiệp của ông hầu như chỉ có nỗi buồn mà chẳng mấy niềm vui. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua gặp buổi loạn lạc, giặc cướp cực kì, mình bị bệnh nặng, không biết sớm cầu con nối dõi, họ Lý phải mất”. Sách Việt sử tiêu án thì nhận xét: “Vua là người tài hèn, gặp ly loạn, vì người vợ đẹp mà gây nên biến loạn, không biết tìm người kế tự, họ Lý mới bị mất nước”.

Lần đầu xưng vương, lần sau xưng đế


Nhiều người lầm tưởng rằng Lê Thần Tông là người duy nhất trong lịch sử Việt Nam làm vua 2 lần nhưng thực ra không phải. Nếu theo truyền thuyết và cuốn Hùng triều ngọc phả thì vua Hùng đời thứ 18 (Hùng Duệ Vương) là người trước nhất hai lần làm vua.

Ttheo chính sử thì Lý Huệ Tông cũng hai lần làm vua, lần thứ nhất là khi tổ tông là Lý Cao Tông theo lời gièm pha của nịnh thần đã giết oan tướng Phạm Bỉnh Di năm Kỷ Tỵ (1209), thủ túc của viên tướng này do Quách Bốc cầm đầu đã đem quân làm loạn khiến Lý Cao Tông cùng triều đình, hoàng gia bỏ Thăng Long đi chạy loạn. Hoàng thái tử Lý Hạo Sảm chạy đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp (nay thuộc huyện Hưng Nhân, yên bình); nghe tiếng con gái của Trần Lý một nhân vật có thần thế trong vùng là Trần Thị Dung có nhan sắc, bèn lấy làm vợ.

Trần Lý vốn xuất thân làm nghề đánh cá, sau trở nên phong lưu, người quanh vùng theo phục, tự xây dựng lực lượng riêng, nhân có hoàng thái tử đến bèn dựa vào gây thanh thế. Thái tử sau khi lấy con gái của Trần Lý liền phong cho ông tước Minh Tự, phong em vợ Trần Lý là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ, Phạm Ngu làm Thượng phẩm phụng ngự. Mấy người này mộ binh mã dưới danh nghĩa giúp thái tử Sảm rồi lập ông làm vua, lấy tôn xưng là Thắng Vương. Biết tin con mình tự tiện xưng vương, lập triều đình ­­riêng và phong tước tùy tiện nên Lý Cao Tông rất tức giận định sai quân đi đánh nhưng ý định không thành.

Sau khi loạn Quách Bốc bị dẹp, Lý Cao Tông về lại Thăng Long, chuyện tự xưng vương trước đó vua không xét tới nên hoàng thái tử thoát tội, khi vua mất, Lý Hạo Sảm lên kế vị ngôi báu (tức Lý Huệ Tông). Như vậy Lý Huệ Tông làm vua lần thứ nhất chỉ xưng vương, lần thứ hai thì xưng là hoàng đế.

Lý Huệ Tông tên húy là Lý Hạo Sảm, có tên khác là Lý Kiểu, sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194) tại hoàng cung ở kinh thành Thăng Long; vua là con trưởng của Lý Cao Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đàm (không rõ tên). Ông chính là vị vua duy nhất trong lịch sử có tên gọi được coi như điềm báo mất ngôi của dòng tộc.

Tục truyền khi Lý Thái Tổ lập ra nhà Lý có về thăm quê, thiền sư Vạn Hạnh dâng lên vua một bài thơ và nói đó là do thần nhân viết ra. Trong bài thơ có câu: “Một ảnh nhật đăng san” (dữ gác núi là hết bóng). Tên vua Lý Huệ Tông là Sảm được ghép từ chữ Nhật (kim ô) ở phía trên và chữ Sơn (núi) ở dưới, nghĩa là màng tang gác núi, họ Lý mất nước. Sách Việt sử diễn âm sau này diễn tả như sau :

Thái Tổ lại nhớ đến thầy
Ở chùa Phù Đổng ngày rày viếng chơi
Thiên tăng thấy vua đến chơi
Đến Thần Vương miếu có lời rằng bây
Có tân Thiên Tử đến đây
Thần Vương xá lại, đường này mừng vua
Thần liền hiện đến bốn câu
Dòng dòng vào quạt nên thơ bảo thầy
Thi văn:
Nhất bát công đức thủy
Tùy duyên hóa trần gian
Quang minh trùng chiếu diệu
Miệt ảnh nhật đăng sơn.


Lý Huệ Tông là vị vua Lý phải chạy loạn nhiều lần nhất. Tháng 2 năm Nhâm Thân (1212) có loạn ở kinh kì, vua phải chạy sang đất Đông Ngạn (nay là Đông Anh, Hà Nội). Tháng giêng năm Giáp Tuất (1214) Trần Tự Khánh đem quân về kinh, vua cho là có mưu bội nghịch bèn chạy sang Đại Thất (nay thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh) rồi chạy lên Lạng Châu (Lạng Sơn ngày nay). Khi nghe tin quân của Trần Tự Khánh đến nói xin rước vua về kinh, Lý Huệ Tông chạy về Cổ Lộng (nay thuộc Thái Nguyên) rồi lại lên Lạng Châu, sau chạy đến Nam Sách (nay thuộc Hải Dương).

Tháng 6 năm Giáp Tuất (1214) Lý Huệ Tông về Thăng Long thì đến tháng 9 lại phải bỏ chạy khỏi kinh đô, sau khi quân phản loạn rút đi ông mới trở về cung, được ít lâu vua lại chạy ra ngoại ô trú tạm. Tháng 5 năm Ất Dậu (1215) vua đến tránh ở Tây Dương (nay thuộc Cầu Giấy, Hà Nội). Biết khó trấn áp được nổi loạn ở khắp nơi, Lý Huệ Tông đành phải dựa vào lực lượng của Trần Tự Khánh, tới cuối năm Bính Tý (1216) vua mới trở về kinh thành.

Nhà sử học triều Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “Đến đời Huệ Tông cái rường mối hư của thế gian đã quá lắm mà vua thì không phải người giỏi giang cứng cáp, bề tôi giúp nước thì nhu nhược hèn kém, muốn chữa mối hỏng hóc lâu ngày thì làm thế nào được. Huống chi Huệ Tông lại bị chứng hiểm, chữa thuốc không được; lại không có con trai để kế nghiệp lớn. Thế là cái điềm nguy vong đã hiện ra rồi” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Tượng thờ ở lăng vua Lý Huệ Tông (Từ Sơn, Bắc Ninh) Ảnh: Lê Thái Dũng


Hai lần định cạo đầu đi tu, lần thứ 3 bị ép phải xuất gia

Theo sử sách, Lý Huệ Tông đã hai lần định cắt tóc, cạo đầu với ý muốn đi tu, lần đầu là vào tháng 2 năm Nhâm Thân (1212) lúc đó sau nhiều lần chạy lánh nạn trước cảnh các thế lực cát cứ đánh giết lẫn nhau, triều đình không thể chế ngự được, theo sách “Đại Việt sử lược”vì chán nản Lý Huệ Tông đã “tới trước bàn độc Phật thề rằng:

- Trẫm là người đức bạc, thẹn nối cơ đồ quý giá, đến nỗi loạn ly, gần sụp đổ mất cơ nghiệp của người xưa, để cho cung giá phải nhiều lần đổi dời. Nay trẫm muốn tháo lui nhường ngôi trời cho người hiền đức.

Nói đoạn vua cầm dao định cắt tóc để đi tu. Trần Tự Khánh và quần thần đều khấu đầu khóc lóc, vua mới thôi”.

Tháng 5 năm Ất Hợi (1215) tình hình tầng lớp càng ngày càng rối loạn, Lý Huệ Tông lại nói với triều thần rằng:

- Trẫm muốn thoái vị, các khanh thấy thế nào?

triều thần đều khóc lóc can ngăn, vua không nghe, bèn cùng Thái hậu dùng dao cạo tóc (Đại Việt sử lược). Tuy nhiên ý định của Lý Huệ Tông không thực hành được, quân phản loạn tiến công kinh thành, đốt cháy cả cung điện khiến vua một lần nữa phải chạy loạn, đến ở nhà một viên đại thần, thậm chí có lần phải sai người dựng nhà tranh mái lá để ở. Cuối cùng chẳng còn cách nào khác, vua đành dựa vào anh em họ Trần để đánh dẹp các bè khác, dần dần để quyền lực mất về tay chính dòng họ này, đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224), trước áp lực của thần thế họ Trần đứng đầu là Trần Thủ Độ, vua Lý Huệ Tông đã xuống chiếu truyền ngôi cho con gái thứ là Lý Phật Kim (Chiêu Hoàng) rồi đi tu ở chùa Chân Giáo trong hoàng thành Thăng Long với pháp hiệu là Huệ Quang thiền sư.

Lời nguyền ứng nghiệm

Lý Huệ Tông là vị vua độc nhất trong lịch sử có thời kì bị phát bệnh điên, ban sơ là mắc bệnh trúng phong vào cuối năm Bính Tý (1216) nên đau yếu luôn, không đi đâu được chỉ ở trong cung, thầy thuốc giỏi trong cả nước được gọi đến nhưng không chữa khỏi được cho vua. Đến năm Đinh Sửu (1217) “mùa xuân, tháng 3, vua dần phát chứng điên, có lúc nói là Thiên tướng giáng trần, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sáng sớm đến chiều không nghỉ” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Dã sử cho hay, vua phát điên, nhiều lúc tự xưng là Thiên tướng giáng thế, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc mà múa hát :

Ta đây là tướng nhà trời,

bữa nay giáng trần cho người sợ oai.

Cứ như vậy liên tiếp, từ sớm đến chiều không nghỉ, khi múa xong thì đổ mồ hôi, nóng nực khát nước lại uống rượu say, ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Một thời gian sau vua khỏi bệnh nhưng đến năm Canh Thìn (1220) lại bị trúng phong, chữa không kiến hiệu gì nên vua chỉ ở trong cung, quyền hành rơi dần vào tay họ Trần do Trần Tự Khánh đứng đầu. Tháng 12 năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh chết, quyền lực lại chuyển sang người em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ. ­­­

Đứng đầu là nhà họ Trần lúc đó là Trần Thủ Độ, một người đa mưu, quả quyết và giàu tham vọng. Một hôm Trần Thủ Độ vào chùa, thấy Huệ Tông đang ngồi chồm hỗm nhổ cỏ ở vườn bèn nói:

- Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ.

Sau đó Trần Thủ Độ sai người đến chùa bày biện hương hoa và bảo:

- Thượng phụ sai thần đến xin với người một việc.

Hiểu thâm ý trong câu đó, Huệ Tông giận lắm nói:

- Ta tụng kinh xong sẽ tự sát!

Một lát sau ông vào buồng ngủ khấn rằng:

- dương gian nhà ta đã về tay nhà ngươi rồi, ngươi lại còn giết ta; hiện tại ta chết, đến khi các con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế.

Khấn xong ông treo cổ tự sát, hôm đó là ngày mồng 10 tháng 8 năm Bính Tuất (1226). Điều kỳ lạ là đúng 174 năm sau, Hồ Quý Ly cũng thực hành việc cướp ngôi nhà Trần bằng việc ép vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần Án mới 3 tuổi, rồi bắt đi tu. Đến tháng 4 năm Kỷ Mão (1399) H­­­­ồ Quý Ly sai người đến bức Trần Thuận Tông phải tự vẫn. Vậy là lịch sử được lặp lại chuyện “giết vua, cướp ngôi”.


Lê Thái Dũng


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét