Trong số các vị vua thời phong kiến ở nước ta, có nhẽ Lý Huệ Tông là vua gặp nhiều thống khổ, xấu số hơn cả; thế cục và sự nghiệp của ông hầu như chỉ có nỗi buồn mà chẳng mấy niềm vui. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua gặp buổi loạn lạc, giặc cướp cực kì, mình bị bệnh nặng, không biết sớm cầu con nối dõi, họ Lý phải mất”. Sách Việt sử tiêu án thì nhận xét: “Vua là người tài hèn, gặp ly loạn, vì người vợ đẹp mà gây nên biến loạn, không biết tìm người kế tự, họ Lý mới bị mất nước”. Thái Tổ lại nhớ đến thầy Lý Huệ Tông là vị vua Lý phải chạy loạn nhiều lần nhất. Tháng 2 năm Nhâm Thân (1212) có loạn ở kinh kì, vua phải chạy sang đất Đông Ngạn (nay là Đông Anh, Hà Nội). Tháng giêng năm Giáp Tuất (1214) Trần Tự Khánh đem quân về kinh, vua cho là có mưu bội nghịch bèn chạy sang Đại Thất (nay thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh) rồi chạy lên Lạng Châu (Lạng Sơn ngày nay). Khi nghe tin quân của Trần Tự Khánh đến nói xin rước vua về kinh, Lý Huệ Tông chạy về Cổ Lộng (nay thuộc Thái Nguyên) rồi lại lên Lạng Châu, sau chạy đến Nam Sách (nay thuộc Hải Dương). Tháng 6 năm Giáp Tuất (1214) Lý Huệ Tông về Thăng Long thì đến tháng 9 lại phải bỏ chạy khỏi kinh đô, sau khi quân phản loạn rút đi ông mới trở về cung, được ít lâu vua lại chạy ra ngoại ô trú tạm. Tháng 5 năm Ất Dậu (1215) vua đến tránh ở Tây Dương (nay thuộc Cầu Giấy, Hà Nội). Biết khó trấn áp được nổi loạn ở khắp nơi, Lý Huệ Tông đành phải dựa vào lực lượng của Trần Tự Khánh, tới cuối năm Bính Tý (1216) vua mới trở về kinh thành. Nhà sử học triều Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “Đến đời Huệ Tông cái rường mối hư của thế gian đã quá lắm mà vua thì không phải người giỏi giang cứng cáp, bề tôi giúp nước thì nhu nhược hèn kém, muốn chữa mối hỏng hóc lâu ngày thì làm thế nào được. Huống chi Huệ Tông lại bị chứng hiểm, chữa thuốc không được; lại không có con trai để kế nghiệp lớn. Thế là cái điềm nguy vong đã hiện ra rồi” (Đại Việt sử ký toàn thư). Tượng thờ ở lăng vua Lý Huệ Tông (Từ Sơn, Bắc Ninh) Ảnh: Lê Thái Dũng Hai lần định cạo đầu đi tu, lần thứ 3 bị ép phải xuất gia Theo sử sách, Lý Huệ Tông đã hai lần định cắt tóc, cạo đầu với ý muốn đi tu, lần đầu là vào tháng 2 năm Nhâm Thân (1212) lúc đó sau nhiều lần chạy lánh nạn trước cảnh các thế lực cát cứ đánh giết lẫn nhau, triều đình không thể chế ngự được, theo sách “Đại Việt sử lược”vì chán nản Lý Huệ Tông đã “tới trước bàn độc Phật thề rằng: - Trẫm là người đức bạc, thẹn nối cơ đồ quý giá, đến nỗi loạn ly, gần sụp đổ mất cơ nghiệp của người xưa, để cho cung giá phải nhiều lần đổi dời. Nay trẫm muốn tháo lui nhường ngôi trời cho người hiền đức. Nói đoạn vua cầm dao định cắt tóc để đi tu. Trần Tự Khánh và quần thần đều khấu đầu khóc lóc, vua mới thôi”. Tháng 5 năm Ất Hợi (1215) tình hình tầng lớp càng ngày càng rối loạn, Lý Huệ Tông lại nói với triều thần rằng: - Trẫm muốn thoái vị, các khanh thấy thế nào? triều thần đều khóc lóc can ngăn, vua không nghe, bèn cùng Thái hậu dùng dao cạo tóc (Đại Việt sử lược). Tuy nhiên ý định của Lý Huệ Tông không thực hành được, quân phản loạn tiến công kinh thành, đốt cháy cả cung điện khiến vua một lần nữa phải chạy loạn, đến ở nhà một viên đại thần, thậm chí có lần phải sai người dựng nhà tranh mái lá để ở. Cuối cùng chẳng còn cách nào khác, vua đành dựa vào anh em họ Trần để đánh dẹp các bè khác, dần dần để quyền lực mất về tay chính dòng họ này, đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224), trước áp lực của thần thế họ Trần đứng đầu là Trần Thủ Độ, vua Lý Huệ Tông đã xuống chiếu truyền ngôi cho con gái thứ là Lý Phật Kim (Chiêu Hoàng) rồi đi tu ở chùa Chân Giáo trong hoàng thành Thăng Long với pháp hiệu là Huệ Quang thiền sư. Lời nguyền ứng nghiệm Lý Huệ Tông là vị vua độc nhất trong lịch sử có thời kì bị phát bệnh điên, ban sơ là mắc bệnh trúng phong vào cuối năm Bính Tý (1216) nên đau yếu luôn, không đi đâu được chỉ ở trong cung, thầy thuốc giỏi trong cả nước được gọi đến nhưng không chữa khỏi được cho vua. Đến năm Đinh Sửu (1217) “mùa xuân, tháng 3, vua dần phát chứng điên, có lúc nói là Thiên tướng giáng trần, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sáng sớm đến chiều không nghỉ” (Đại Việt sử ký toàn thư). Dã sử cho hay, vua phát điên, nhiều lúc tự xưng là Thiên tướng giáng thế, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc mà múa hát : Ta đây là tướng nhà trời, bữa nay giáng trần cho người sợ oai. Cứ như vậy liên tiếp, từ sớm đến chiều không nghỉ, khi múa xong thì đổ mồ hôi, nóng nực khát nước lại uống rượu say, ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Một thời gian sau vua khỏi bệnh nhưng đến năm Canh Thìn (1220) lại bị trúng phong, chữa không kiến hiệu gì nên vua chỉ ở trong cung, quyền hành rơi dần vào tay họ Trần do Trần Tự Khánh đứng đầu. Tháng 12 năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh chết, quyền lực lại chuyển sang người em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ. Đứng đầu là nhà họ Trần lúc đó là Trần Thủ Độ, một người đa mưu, quả quyết và giàu tham vọng. Một hôm Trần Thủ Độ vào chùa, thấy Huệ Tông đang ngồi chồm hỗm nhổ cỏ ở vườn bèn nói: - Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ. Sau đó Trần Thủ Độ sai người đến chùa bày biện hương hoa và bảo: - Thượng phụ sai thần đến xin với người một việc. Hiểu thâm ý trong câu đó, Huệ Tông giận lắm nói: - Ta tụng kinh xong sẽ tự sát! Một lát sau ông vào buồng ngủ khấn rằng: - dương gian nhà ta đã về tay nhà ngươi rồi, ngươi lại còn giết ta; hiện tại ta chết, đến khi các con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế. Khấn xong ông treo cổ tự sát, hôm đó là ngày mồng 10 tháng 8 năm Bính Tuất (1226). Điều kỳ lạ là đúng 174 năm sau, Hồ Quý Ly cũng thực hành việc cướp ngôi nhà Trần bằng việc ép vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần Án mới 3 tuổi, rồi bắt đi tu. Đến tháng 4 năm Kỷ Mão (1399) Hồ Quý Ly sai người đến bức Trần Thuận Tông phải tự vẫn. Vậy là lịch sử được lặp lại chuyện “giết vua, cướp ngôi”.
|
Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013
Những điều ít biết về rộng rãi Hoàng đế Lý Huệ Tông
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét