Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Du nhập động vật ngoại lai để bình ngày hôm nay phục đa dạng sinh học.

Điều này khiến các loài không đặc hữu phát triển và từ đó thu hẹp và cuối cùng là triệt tiêu các loài quý hiếm vốn thích nghi với môi trường nghèo dinh dưỡng

Du nhập động vật ngoại lai để phục hồi đa dạng sinh học

Nhưng trong một thế giới bị chi phối bởi con người và môi trường đổi thay nhanh chóng như bây giờ thì mọi thứ đã trở nên phức tạp hơn, chẳng thể lúc nào cũng duy trì một khu vực thuần túy các loài bản địa.

Nhiều người vẫn tin rằng bảo tồn tự nhiên tức thị để cho hệ động, thực vật bản địa tồn tại riêng biệt, không có sự cạnh tranh của các loài ngoại lai hoặc khôi phục nguyên trạng môi trường sống của chúng.

Ông giảng giải rằng cảnh quan nơi đây chịu ảnh hưởng của một lượng lớn phân bón từ không trung khi các dụng cụ liên lạc và các nhà máy thải ô-xít ni-tơ.

Sau nhiều thế kỷ được con người sử dụng, phong cảnh đó khi trở về thể thiên nhiên thường sẽ có ít loài hơn, vì thế lý do đằng sau rất nhiều kế hoạch bảo tồn ở Đức liên can đến việc tái nhập cảng các động vật ăn cỏ ngoại lai. 10. Thỉnh thoảng chúng ta phải sáng tạo và linh hoạt hơn trong cách điều chỉnh phong cảnh để duy trì đa dạng sinh vật học.

Ông Josef Reichholf, nhà động vật học và sinh vật học tiến hóa của Đại học Kỹ thuật Munich, người từ lâu đã ủng hộ việc đưa những loài ăn cỏ lớn để tăng cường đa dạng sinh học ở các phong cảnh có con người sinh sống, cho biết: “Chăn thả ngựa konik và các động vật ăn cỏ lớn khác là phương pháp tốt nhất để bảo tồn tự nhiên ở Đức”. Họ tin rằng cư dân tỉnh thành Berlin sẽ thích thứ hương vị từ tự nhiên này… Theo  Diễn đàn Đầu tư.

Dự án Töpchin là ví dụ về một thiên hướng bảo tồn đang phát triển ở châu Âu, sử dụng các loài động vật ăn cỏ lớn, ngoại lai để làm tăng sự đa dạng của hệ động, thực vật bản địa.

Cuối năm ngoái, một vài hộ gia đình ở Töpchin còn sinh sản được thịt và xúc xích trâu đem bán. Hay ở quận Barnim thuộc bang Brandenburg, người ta phối hợp chăn thả ngựa konik – loài ngựa được cho là có nguồn gốc từ ngựa hoang châu Âu cổ đại – và các loài gia súc của Anh.

Mãi đến mùa hè năm 2011, người ta mới đưa nước về chăn thả tại ngôi làng Töpchin theo một dự án kết hợp cùng Quỹ bảo tồn Thiên nhiên Brandenburg tiến hành. Thảm thực vật dày đặc cũng tạo ra một vi khí hậu ẩm thấp mát mẻ gây bất lợi cho nhiều loài sâu bọ và loài chim vốn phù hợp với các sinh cảnh thoáng đạt.

000 năm trước, trâu nước vẫn là loài bản địa ở châu Âu nhưng vì nạn săn bắt nở rộ đã đẩy phạm vi sống của chúng ra xa tới phía đông nam của đất liền. Cách Berlin vài cây số về phía tây, Quỹ Heinz Sielmann đã đưa 19 con ngựa Przhevalsky – loài bản địa của Mông Cổ – cùng chung sống với 41 con bò rừng bizon châu Âu ở Döberitzer, nơi trước đây từng là khu huấn luyện quân sự. Chỉ trong thời kì ngắn, rất nhiều dự án rưa rứa như Töpchin đã xuất hiện trên toàn nước Đức.

Những con trâu nước này đang được kỳ vọng sẽ giúp hồi phục đa dạng sinh học ở ngôi làng Töpchin   Ông Holger Rössling thuộc Quỹ bảo tàng Thiên nhiên Brandenburg cho biết: “Chúng ta cần trâu để loại bỏ sinh khối, nếu không những khu vực nói trên sẽ mất đi các loài cây đặc hữu và chỉ còn tồn tại các loài phổ biến… Khác với bò, loài trâu chịu đựng giỏi và thích ứng tốt.

Mục tiêu của dự án là để những con ngựa hoang và bò rừng bizon châu Âu dọn bớt cỏ ở khu vực này, tạo điều kiện cho các loài ưa nhiệt phát triển. Những con vật màu đen sừng được lai tạo giống theo đơn đặt hàng riêng tại Pháp có thể gặm cỏ ở những môi trường ẩm ướt và nghèo dinh dưỡng mà loài bò ở Đức đã ngán ngẩm, bao gồm một số vùng đầm lầy bị đe dọa và khu vực đầm lầy muối còn sót lại. Nếu sáng kiến “Tái tạo thiên nhiên châu Âu” do các nhóm bảo tàng như Quỹ Quốc tế Bảo vệ tự nhiên (WWF) dẫn đầu đặt đích đến năm 2020 “tái tạo tự nhiên” được 1 triệu héc-ta đất thuộc 10 khu bảo tàng từ Tây Ban Nha tới lưu vực sông Danube và dãy núi Carpathian thì trái lại, các dự án ở Đức lại nhằm bình phục đa dạng sinh học cho những cảnh quan mà con người đã tác động.

Ngoài lợi thế về bộ móng guốc khỏe, chúng còn có thể gặm hầu như bít tất các loài thực vật”. Do đó việc đưa các loài ăn cỏ lớn tới đây là nhằm loại bỏ bớt các loài cây phát triển quá mức, cho phép các loài bản địa hiếm hơn phát triển mạnh. Cốt lõi của việc tái nhập cảng chính là tập hợp theo dõi tác động của những loài ăn cỏ lớn tới phong cảnh.

Khác với khu vực nhiệt đới, phần đông đa dạng sinh học ở châu Âu không nằm trong các cánh rừng, mà ở khu vực đồng cỏ, đầm lầy và các vùng đất hoang.

Với lợi thế về sức vóc, chúng được kỳ vọng sẽ dễ thích nghi với địa hình mấp mô và ẩm ướt hơn so với những chú bò thông thường ở Đức. Điều đang xảy ra ở Đức hưởng ứng một khuynh hướng được gọi là “tái tạo thiên nhiên” (rewild), một phong trào toàn cầu nhằm mở rộng các khu vực hoang dại trọng yếu, kết nối chúng ưng chuẩn các cầu tiêu cho phép con người và động vật cùng tồn tại, đồng thời bảo vệ và tái nhập khẩu các loài động vật ăn thịt hàng đầu.

Dự án tiếp theo cũng sử dụng động vật ăn cỏ lớn nhằm khôi phục cảnh quan Thiên nhiên tại một nhà máy xử lý nước thải cũ gần thủ đô Berlin.

Ngôi làng Töpchin thuộc bang Brandenburg cách Berlin khoảng 40km là một trong những nơi trước hết thực hành thử nghiệm và loài ngoại lai được nhập khẩu là hà mã châu Á. Những dự án bảo tàng như Töpchin lúc đầu cũng bị người dân địa phương hoài nghi như một hình thức chiếm đất hợp pháp, song dần dần, họ đã nhận ra tính hiệu quả của dự án và đồng ý cho hà mã đến gặm cỏ trên đất của mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét