Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Không gian của tốt hơn tiếp nhận.

Nó có trào phúng nhưng không  hẳn/chỉ  là trào lộng, thậm chí độc lập với chức năng phúng gián. Ở Việt Nam, Mrożek lại được biết đến chính yếu với tư cách nhà văn viết truyện ngắn trào lộng, ngay từ rất sớm, và cho đến tận giờ. Ngoài tính năng sản của tác phẩm Mrożek, sự thay đổi trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người Việt Nam cũng làm cho một số vấn đề trong tác phẩm của ông được trội lên ở mặt này hay mặt khác, khi là tính chất cách mạng tầng lớp, khi là hiệu quả nghệ thuật tự sự, khi là phương thức tiếp cận nghệ thuật về con người và xã hội.

Năm 1990, một bản dịch  Con voi  từ nguyên bản tiếng Ba Lan của dịch giả Nguyễn Hữu Dũng cũng được công bố tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

Với Mrożek, đặc trưng viết ngắn đọng lại ở cái nhìn mang tính phúng dụ về đời sống, về nghệ thuật, làm thành những tác phẩm nhẹ-nhõm-sâu-cay khi cất tiếng cười giữa thế cuộc. Gọi là viết ngắn để chính yếu để nhấn mạnh đến thuộc tính giới hạn của tự sự, với sự gọn nhẹ của số lượng ngôn từ và khả năng bao quát ý tưởng, trong việc bao gộp thuộc tính kể việc và nghị sự, mà sự phân tích nhiều khi là bất khả.

Phẩm tính phi lý không được nhấn mạnh mà thay thế vào đó là phẩm tính trào lộng: tập sách của Nhà xuất bản Tác phẩm mới có thêm phụ đề “Tập truyện châm biếm”.

Bên cạnh tiếng cười trào lộng, có một bộ phận đáng kể những truyện của Mrożek được viết theo một văn pháp khác. Thêm nữa, bởi với một dịch giả hào kiệt không chỉ nằm lòng văn chương phi lý, thì một Mrożek của  Tango  đến từ Ba Lan tầng lớp chủ nghĩa xa xăm (hay từ một nhà văn Ba Lan đang lưu vong tại Pháp), có thể là một dấu chỉ quan trọng cho việc truyền dẫn tới độc giả Việt Nam.

Đến thời Lê Bá Thự, định ngữ này lại được thay thế để thành “truyện rất ngắn”, một loại thể mới được biết đến ở Việt Nam, như một cộng hưởng để theo đó, hy vọng viết ngắn có thể trở nên loại thể ưu trội trong văn học Việt Nam thế kỷ mới. Một lời kết xuất sắc, cho nhiều hơn một kết thúc truyện. ” Đó là lời kết của truyện  Nghề tự tận.

Mrożek cũng thành công với truyện ngắn và tiểu luận, nơi biểu lộ nhiều quan điểm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Ông muốn người ta cất tiếng nói từ sự độc lập tự chủ ấy, dù thuần tuý có khi chỉ là một phát hiện giản dị mà không đơn giản: “Tin tức tốc bảo đó là ‘vụ tự sát’, còn tôi thì tôi bảo, đó chẳng qua là một vụ tai nạn.

Và ở mỗi thời đoạn, ông đều mang đến cho người đọc Việt Nam ít nhiều những nhận thức và trải nghiệm mới mẻ. Truyện của Mrożek hấp dẫn người đọc trước tiên ở tính cách trào phúng. Có thể nom những tác phẩm này như là những  viết ngắn  , còn được định danh bằng các tên gọi khác như truyện cực ngắn (nếu mường tượng đấy là diễn ngôn truyện kể), là tiểu luận (nếu tưởng tượng đấy là các diễn ngôn nghị luận).

Trong cái nghề trầm mình, đôi khi cũng xảy ra tai nạn chết người. Tính cách trào phúng, do đó, giảng giải cho việc dễ dàng đính thêm phụ đề “Truyện châm biếm” vào bản dịch  Con voi  , khi nó được hiểu như là một dòng mạch phát triển khá mạnh mẽ trong văn học Việt Nam truyền thống.

Nó được bật lên bởi sự lố lỉnh của nhân vật, sự hí hước của các chi tiết sáng ý, sự bất thần của các sắp xếp khéo. Tập  50 truyện ngắn Sławomir Mrożek  của Nhà xuất bản văn học cũng có kèm theo phụ đề: “Truyện ngắn, truyện cực ngắn chọn lọc”, trước khi trở về với phụ đề thân thuộc “Tập truyện ngắn” trong lần xuất bản bổ sung của Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Gần đây nhất, tháng 5/2013, tập truyện  Con voi [Tuyển tập 85 truyện ngắn Mrożek]   của dịch giả Lê Bá Thự được Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, trên cơ sở phát triển từ tập  50 truyện ngắn Sławomir Mrożek  (Nhà xuất bản văn học, 2002). Vậy là, cùng một đối tượng, hiện diện ở Việt Nam trong hơn 40 năm, trong những không gian đọc khác nhau, nom về Mrożek đã có những chuyển đổi, theo cùng nhu cầu nhận thức và thưởng thức văn chương.

Tiếng cười trong truyện Mrożek, thành ra, dù hí hước hay mỉa mai hay châm biếm, đều kéo theo ở phía bên kia của nó tiếng khóc. Nó khiến người đọc phải nghĩ suy, đau xót và thấm thía. 1. Qua thời Nguyễn Hữu Dũng, loại thể được nhấn mạnh ở góc cạnh nội dung, khi được thêm định ngữ để trở nên “truyện châm biếm”. Để ngay cả khi, nhiều ít những kinh nghiệm nghệ thuật của Mrożek có thể bị bỏ lỡ hay đã bị vượt qua, thì với nhiều khúc quành trong đời sống dịch thuật văn học Việt Nam, ông vẫn hiện diện như một chỉ dấu lịch sử để văn chương Việt Nam soi rọi vào chính nó.

Sławomir Mrożek (1930) được biết đến với tư cách họa sĩ biếm họa trước khi trở thành kịch tác gia, nhà văn trào phúng Ba Lan nổi tiếng thế giới.

Sự san sẻ giữa hai dịch giả, Có lẽ đều ở góc cạnh giá trị tư tưởng và tuấn kiệt nghệ thuật độc đáo của Mrożek. Điều gì đã khiến Mrożek du hành tới Việt Nam chỉ mươi mười lăm năm sau khi ông khẳng định được tiếng tăm của mình ở Ba Lan và châu Âu? Và tại sao lại là truyện ngắn chứ không phải kịch? có nhẽ sự thống nhất trong phong cách trào lộng ở quờ quạng các thể loại mà Mrożek sáng tạo, với tính chất humour đặc trưng, khả năng dùng ngôn ngữ tinh tế và kỹ thuật giễu nhại điêu luyện, thảy hợp thành một phúng dụ về sự phi lý của cõi đời, kiếp người, mà xã hội Ba Lan chỉ là một trường hợp, đã đưa tác phẩm của ông vào tầm quan sát của dịch giả Diễm Châu.

Có thể nói, Mrożek đã du hành đến Việt Nam gần nửa thế kỷ. Có thể đọc được hàng loạt các truyện ngắn của Mrożek từ ý kiến này. Nhưng giữa bối cảnh văn hóa xuất hiện dịch phẩm Mrożek của Nguyễn Hữu Dũng và Lê Bá Thự, dẫu chỉ cách nhau mươi năm, cũng có những đổi thay đáng để ý. Với riêng Nguyễn Hữu Dũng, đấy còn là ý hướng giới thiệu về nền văn chương Ba Lan, mà trước Mrożek, là những Henryk Sienkiewicz, Tadeusz Dolega Mostowicz, Helena Mniszek,… Ở khía cạnh thứ hai này, Nguyễn Hữu Dũng san sớt với dịch giả đến sau là Lê Bá Thự, khi cả hai ông đều là những dịch giả dịch văn học Ba Lan từ nguyên ngữ.

Thậm chí, hình thức “phản ngữ” để cất tiếng trào phúng cũng phần nào lép vế hơn so với các hình thức dùng tiếng nói giễu nhại kết hợp với hình tượng nghệ thuật kệch cỡm, lố bịch để tạo hiệu ứng đả kích chua cay. Năm 1969, ở Sài Gòn, dịch giả Diễm Châu đã công bố bản dịch  Con voi (Słoń  , 1957) tại Nhà xuất bản Trình Bầy, trước cả bản dịch sang tiếng Anh ba năm:  The Elephant  (Greenwood Press, 1972).

Mrożek là người bắt bệnh cho tầng lớp Ba Lan đương đại, ông tin vào sự phản biện, vào sự độc lập trong nghĩ suy. Ở đấy, nhận thức sâu sắc cõi đời phi lý, sự giả dối của lòng người, sự lường gạt của quyền lực, Mrożek cất tiếng cười châm biếm, lật tẩy diện mạo khả ố của kẻ cai trị, đồng thời cất tiếng cười mỉa mai cả nạn nhân của nó, những người chấp thuận và/hoặc chịu đựng thỏa hiệp với đời sống tha hóa ấy.

4. 5. Mrożek viết khoảng 40 vở kịch, đặc biệt với  Tango  (1964), ông đã kiến lập được tiếng tăm của mình trong dòng mạch những sáng tạo văn học phi lý vào nửa sau thế kỷ XX. Đọc truyện, theo đó, người đọc trước hết được trải nghiệm tiếng cười. Rất ít khi đó là tiếng cười hí hước, mà cốt yếu là tiếng cười mai mỉa, châm biếm. Trước hết, ở thời kỳ Diễm Châu chuyển dịch, đó thuần tuý chỉ là “truyện” trong sự biện biệt với thơ và kịch.

Sau Diễm Châu hai mươi năm, bản dịch của Nguyễn Hữu Dũng dường như lại xuất hiện trong một khung cảnh văn hóa khác. 3. 2. Nhưng khi tiếng cười vừa ngưng lại, thì nỗi buồn đội rồi trào dâng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét