“Tôi không thấy cặp vợ chồng nào đi với nhau mà người đàn bà phải xách nặng, còn đàn ông đi tay không
Nhưng người đàn bà cũng phải biết kìm chế cảm xúc, biết nên giới hạn đến đâu là vừa để không tự làm khổ mình. Chị bảo rằng, không ít lần chị chạnh lòng khi chứng kiến người đàn ông Âu, Mỹ họ “nịnh” phụ nữ, mà họ “nịnh” ghê lắm. Và cũng từ đó, Trần Thị Trường viết liên tiếp. Nhưng chị cũng muốn nhắn gửi tới giới của mình rằng chị đã qua một thế cục khá dài, đi nhiều nơi, sống ở nhiều chỗ, xúc tiếp với nhiều tình cảnh và số phận người, thấy đàn bà trên toàn thế giới dù có được đàn ông chiều đến mấy thì vẫn khổ.
Nữ giới nào cũng yếu đuối, nông nổi, cả tin, thậm chí chua ngoa, đáo để nhưng cứ nhìn kỹ mà xem, có cuộc hôn nhân nào vỡ lẽ khi ra tòa mà người giành nuôi con không phải là đàn bà đâu?”, chị nói. Riêng chuyện sinh nở đã là khác biệt và quá khó nhọc. Ở đó, người nữ giới vừa đáng thương vừa đáng giận, vừa đáng ghét vừa đáng yêu. Nếu viết về những người phụ nữ ấy, chị cũng vẫn sẽ chia sẻ với họ sự đồng cảm này.
Thế nên, từ “Lời cuối cho em” đến truyện ngắn sau này trong các tập truyện ngắn “thời kì ngoảnh mặt”, (2001), “Hoa mưa” (2003), “Tình như chút nắng” (2005) hay những truyện ngắn gần đây “Sóng vỗ mạn thuyền”, … chị viết và hy vọng, nếu họ đọc được thì đấy là một sự chia sẻ của con người với con người, của những người đàn bà với nhau trong cuộc đời này.
Chị muốn người phụ nữ mạnh mẽ hơn lên, làm chủ cuộc sống hơn lên, nhưng vẫn chẳng thể hình dung một người nữ giới sống đơn thân thì sẽ sống thế nào? Nhưng sau khi nghe câu chuyện của những người đàn ông trong một vài cặp vợ chồng già chuyện trò với nhau rằng, nếu giời bắt phải chết thì xin mong cho được chết trước vợ mình vì họ sẽ không biết phải làm gì trong Thời gian còn lại của thế cục khi chỉ có một mình; thì chị nghĩ rằng người nữ giới dù có sống một mình cũng chẳng sao cả, xét cho đến cùng, họ vẫn phải tự làm lấy mọi việc một mình.
Chỉ có điều, người thì nói ra, người thì cất giữ, người tài giỏi thể hiện bằng ngôn ngữ đẽo gọt và đoàn luyện mà có, bằng không thì họ kể câu chuyện theo cách của riêng mình. Chị yêu những căn số như thế. Nhưng văn học như mạch nước ngầm sẵn có trong mỗi người, sẵn sàng cho dòng nước mát lành khi được khơi đúng nguồn. Người có nghề thì không nói làm gì, những người cực chẳng đã phải đi là những việc không giảng giải được, không dễ hiểu thì hàng xóm ngay thức thì gọi là “con đĩ”.
Bản năng nữ giới cộng với sự mẫn cảm của người viết văn đã cho chị cái nhìn toàn diện và biết rất rõ mình nên đứng ở đâu và viết vì lẽ gì. Bạn bè đọc được, người này người kia bảo chị có hơi hám văn chương, thế nên khi không còn trẻ gì, 39 tuổi, chị bỗng trình làng tác phẩm đầu tay, cơ mà là tiểu thuyết (hẳn nhiên, đấy là theo cách nói của chị, chứ thật ra nhiều người bắt đầu viết văn ở tuổi cao hơn nhiều).
Không như ở ta, nhiều khi người đàn ông đã đưa hết tiền cho vợ thì “anh ta” có quyền bắt vợ làm nhiều việc”, chị nói. Thật ngẫu nhiên, hầu như các tác phẩm của chị, đặc biệt là truyện ngắn, nhân vật chính hồ hết là nữ. Không chỉ đàn ông không thích phụ nữ hơn mình, mà đàn bà với nhau cũng soi mói nhìn nhau. Cuốn tiểu thuyết “Lời cuối cho em” được tái bản nhiều lần sau đó. Thời kì sống ở trời Âu những năm tám mươi của thế kỷ trước càng khiến Trần Thị Trường đồng cảm với người nữ giới Việt hơn.
Họ không xách đồ thì là bế con. Mong những người đàn bà mạnh mẽ hơn lên Trần Thị Trường tự nhận mình thuộc thế hệ trước. Đời mà từng lớp qui định cho nữ giới những khuôn mẫu, chỉ cần họ sống khác đi một chút đã nhận được cái nhìn không cảm thông, mẹ chồng có thể nhìn thẳng vào con dâu mà nói “con hơn chồng con là tai họa rồi”.
Nhân vật nữ chính trong truyện tên là Thương, một người đàn bà mang đầy đủ vẻ đẹp của đàn bà Việt, hạnh phúc và cay đắng. Chỉ có điều, dù thế nào, chị cũng vẫn đứng về “phe” của mình-phe nước mắt. Trần Thị Trường không phải không mâu thuẫn với chính mình khi bản thân chị cũng nhận biết được những khoảng trống khó có thể lấp đầy với người nữ giới sống đơn thân ở Việt Nam, điều hoàn toàn không có gì đáng phải bàn đến ở các nước phương Tây.
Trong vòng quay ngày một líu tíu và ngày càng phát triển của cuộc sống, người nữ giới hiện giờ bản lĩnh hơn xưa rất nhiều. Nhớ lại một thời kỳ, cuộc sống vô vàn khó khăn, nhiều người thất nghiệp, nhiều ông chồng chẳng có việc làm, nhiều bà vợ đứng ra phụ trách gánh nặng cơm áo.
Không cố ý gán cho nhân vật một sự tuyệt đối nào nhưng chị tưởng tượng rằng, cái tên “Thương” phải chăng là đại diện cho bản chất của người nữ giới Việt Nam. Người nữ giới Việt Nam yêu chồng không chỉ xuất phát bởi chữ “yêu” mà còn phải “thương” nữa. Đương nhiên, Âu Mỹ, trong quan hệ nam nữ, họ thống nhất với nhau một số những nguyên tắc căn bản về tiền nong.
Khi xuống xe, người đàn ông vội chạy xuống mở cửa, đưa tay đỡ người nữ giới bước xuống… Trí thức cũng như công nhân, đều như vậy”.
Luôn đồng cảm dù họ là ai Trước khi đến với nghề văn, Trần Thị Trường từng đeo đuổi một nghề khác và say mê với nó, đó là hội họa. Thế nên, họ cũng luôn hỏi người đàn ông của mình rằng “anh có yêu em không”, chữ “yêu” lẻ ấy bao giờ cũng phải đứng cạnh chữ “thương”, khi ấy “yêu” mới trọn, sâu nặng và bền lâu.
Nhưng dù họ có mưu đồ đến mấy, có thể sẵn sàng bớt xén ăn xén ở đâu đó thì rút cuộc cũng lại đem về cho chồng cho con chứ chẳng phải vì bản thân mình.
Lúc nào người phụ nữ cũng phải nhẫn trước chồng, mới vừa mắt nhà chồng và đồng nghiệp. Ngay trong “Phố Hoài”, cuốn tiểu thuyết viết đã ba năm (chị không thể viết nhanh bởi công việc bận rộn ở trọng tâm bản quyền tác giả âm nhạc VN; hơn nữa chị cho rằng, ở tuổi này rồi chị muốn làm một cái gì đó kỹ lưỡng hơn, sâu nặng hơn), cũng tụ hội vào thân phận những người đàn bà mà chị đã gặp mà chưa viết được về họ.
Những truyện ngắn ban sơ được viết ra chẳng có ý đồ gì cho việc trở nên nhà văn sau này cả, chúng được viết theo kiểu tác phẩm tuổi xanh, ký những cái tên khác nhau. Chị cũng là phụ nữ và chị hiểu bít tất những điều ấy. Xuân Phong. “Ngay như bây chừ, báo chí hay trò chuyện này chuyện kia về giới showbiz, cô này trong đường dây gái gọi, cô kia đi với đại gia và nhiều chuyện khác nữa, nhưng tôi tin đó chỉ là bề nổi, phía sau đó họ cũng có câu chuyện của họ.
Họ biết trông nom cho bản thân nhiều hơn, nhiều người dám sống cho mình, dám chịu nghĩa vụ; họ rất yêu quý cha mẹ nhưng vẫn chọn cách sống của bản thân họ, và chị ủng hộ điều đó.
Và trái tim đa cảm của phụ nữ khiến chị luôn đồng cảm với những nhân vật của mình dù họ là ai, làm nghề gì, dù là trí thức, là dân văn phòng, hay những người cần lao, người đi bán café, đi làm khách sạn, thậm chí là gái làm tiền. Với chị cũng vậy. Từ cái nhìn ấy, chị thấy người nữ giới Việt Nam quả thực vĩ đại, nhưng chính họ cũng làm hư người đàn ông của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét